Tỉnh có chi phí sống rẻ nhất Việt Nam muốn thành đô thị loại I đặc thù, có sân bay chuyên dụng

Trong năm 2023, chi phí sinh hoạt của tỉnh này bằng 85,93% so với Hà Nội.

Theo chỉ số sinh hoạt chỉ số sinh hoạt theo không gian (SCOLI) năm 2023 do Tổng cục Thống kê công bố, Bến Tre là địa phương có chỉ số SCOLI năm 2023 thấp nhất cả nước, bằng 85,93% so với Hà Nội. Giá bình quân các nhóm hàng của Bến Tre so với Hà Nội trong khoảng từ 72,02% - 101,22%.

Chỉ số giá sinh hoạt theo không gian (SCOLI) là thước đo (tính bằng %) phản ánh xu hướng, mức độ biến động giá sinh hoạt của 63 tỉnh thành và 6 vùng kinh tế xã hội theo chu kỳ năm.

Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh 6 tháng đầu 2024 tiếp tục trong xu hướng phục hồi tích cực và đạt một số kết quả đáng ghi nhận trên các lĩnh vực, theo Cục Thống kê tỉnh Bến Tre.

Tỉnh có chi phí sống rẻ nhất Việt Nam muốn thành đô thị loại I đặc thù, có sân bay chuyên dụng- Ảnh 1.

Bến Tre là địa phương có chỉ số SCOLI năm 2023 thấp nhất cả nước.

Cụ thể, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) của tỉnh Bến Tre nửa đầu năm nay ước đạt 4,96%, trong đó khu vực I tăng 2,68%, khu vực II tăng 9,3% và khu vực III tăng 4,96%. Có 1/21 chỉ tiêu đạt nghị quyết, 3/21 chỉ tiêu đạt trên 90%, 6/21 chỉ tiêu đạt từ 50-90%, 7/21 chỉ tiêu đạt dưới 50%, 4/21 chỉ tiêu đánh giá vào cuối năm.

Trước đó, trong Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, tỉnh này muốn "phát triển thịnh vượng, trở thành nơi đáng sống có hệ thống đô thị hiện đại, thông minh, môi trường sống xanh, sạch".

Cũng đến năm 2050, Bến Tre phấn đấu trở thành đơn vị hành chính đô thị loại I đặc thù, đô thị vệ tinh của Thành phố Hồ Chí Minh; các trụ cột tăng trưởng có trình độ phát triển cao và trở thành động lực phát triển quan trọng của vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả nước.

Và xã hội phát triển hài hòa, văn minh, hiện đại; môi trường, trật tự, kỷ cương, an ninh, an toàn và cảnh quan thiên nhiên được gìn giữ; con người phát triển toàn diện, có cuộc sống phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

Bến Tre nghiên cứu xây dựng sân bay chuyên dụng

Bến Tre sẽ tập trung phát triển hạ tầng giao thông ven biển, cảng biển, hạ tầng logistics, công nghiệp chế biến, chế tạo, năng lượng tái tạo, năng lượng mới (hydro xanh); phát triển đô thị - dịch vụ - du lịch tổng hợp, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thích ứng với biến đổi khí hậu.

Đến khi có đủ điều kiện, tiêu chí theo quy định của pháp luật và được cấp có thẩm quyền phê duyệt, từng bước mở rộng không gian ra hướng Đông để tạo quỹ đất sạch thu hút các nhà đầu tư thực hiện các dự án đầu tư hạ tầng, tạo hành lang kinh tế ven biển kết nối với vùng động lực kinh tế phía Nam và Thành phố Hồ Chí Minh

Phấn đấu đến năm 2030 toàn tỉnh Bến Tre có 37 đô thị, trong đó thành phố Bến Tre là đô thị loại I (thành phố thông minh, sinh thái); 03 đô thị loại III; 02 đô thị loại IV; 31 đô thị loại V.

Về giao thông đường bộ, Bến Tre sẽ cải tạo, nâng cấp 5 tuyến đường tỉnh hiện hữu và đầu tư mới 10 tuyến đường tỉnh; nâng cấp và xây dựng mới các tuyến đường đô thị, đường huyện theo quy hoạch đô thị, nông thôn, quy hoạch xây dựng vùng huyện và liên huyện.

Tỉnh có chi phí sống rẻ nhất Việt Nam muốn thành đô thị loại I đặc thù, có sân bay chuyên dụng- Ảnh 2.

Sân bay chuyên dụng ở Ba Tri sẽ phục vụ cứu hộ cứu nạn, phát triển du lịch và khu kinh tế ven biển.

Bến Tre sẽ phối hợp với Bộ Quốc phòng và Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu, đầu tư xây dựng sân bay chuyên dụng ở huyện Ba Tri phục vụ cứu hộ cứu nạn, phát triển du lịch và khu kinh tế ven biển.

Theo Cổng thông tin Bến Tre, Bến Tre là tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, có tổng diện tích tự nhiên 237.970 ha. Phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Vĩnh Long, Nam giáp tỉnh Trà Vinh và phía Đông giáp biển Đông. Hiện Bến Tre có một thành phố trực thuộc tỉnh, 8 huyện và 157 xã, phường, thị trấn.

Dân số trung bình tỉnh Bến Tre năm 2023 là 1.299.328 người, trong đó dân số thuộc khu vực thành thị chiếm 13,22%. Trong khi đó dân số thuộc khu vực nông thôn chiếm 86,78%.

Năm 2023, GRDP của Bến Tre ước tăng 5,16% so cùng kỳ năm trước, đây là mức tăng khá thấp so với những năm gần đây (từ năm 2018 – 2023), chỉ tăng cao hơn các năm dịch Covid-19 bùng phát (năm 2020 và năm 2021).

Trong mức tăng giá trị tăng thêm của toàn ngành kinh tế, Khu vực công nghiệp - xây dựng có mức tăng cao nhất với mức tăng 9,25%, đóng góp 1,92 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ đạt mức tăng trưởng 5,45%, đóng góp 2,22 điểm phần trăm; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt mức tăng trưởng 2,47%, đóng góp 0,87 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 4,45%, đóng góp 0,15 điểm phần trăm.