Tại huyện Di Linh, Lâm Hà, Bảo Lộc (Lâm Đồng) giá cà phê hôm nay được thu mua với mức 126.000 đồng/kg.
Tại huyện Cư M'gar (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay ở mức 126.600 đồng/kg. Tại huyện Ea H'leo (Đắk Lắk), Buôn Hồ (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay được thu mua cùng mức 126.500 đồng/kg.
Tương tự tại tỉnh Đắk Nông, giá cà phê hôm nay thu mua ở mức 126.600 đồng/kg tại Gia Nghĩa và 126.500 đồng/kg ở Đắk R'lấp.
Tại tỉnh Gia Lai, giá cà phê hôm nay ở mức 126.500 đồng/kg (Chư Prông), ở Pleiku và La Grai cùng giá 126.400 đồng/kg.
Còn giá cà phê hôm nay tại tỉnh Kon Tum được thu mua với mức 126.500 đồng/kg.
Thị trường cà phê trong nước giữ ổn định so với cùng thời điểm hôm qua.
Kết thúc phiên giao dịch gần nhất, giá cà phê Robusta tại London giao tháng 9/2024 tăng 51 USD/tấn, ở mức 4.530 USD/tấn, giao tháng 11/2024 tăng 38 USD/tấn, ở mức 4.355 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica giao tháng 9/2024 giảm 2,7 cent/lb, ở mức 238,2 cent/lb, giao tháng 12/2024 giảm 2,65 cent/lb, ở mức 236,7 cent/lb.
Tổng kết tuần, giá cà phê Robusta kỳ hạn giao tháng 9 giảm 87 USD/tấn. Giá cà phê Arabica kỳ hạn giao tháng 9 giảm 10,55 cent/lb. Giá cà phê nội địa mất trung bình 2.000 đồng/kg.
Đà giảm của cà phê tuần này là điều được dự báo trước sau 2 tuần tăng mạnh trước đó. Trên sàn, các quỹ và đầu cơ cân đối lại danh mục hàng hoá. Bên cạnh đó đồng USD hồi phục và vụ thu hoạch thuận lợi ở Brazil gây áp lực lên thị trường.
Theo một số doanh nghiệp trong nước, hiện tại lượng cà phê tồn kho chỉ khoảng 200.000 tấn trong khi còn hơn 3 tháng nữa Việt Nam mới vào vụ thu hoạch. Để đáp ứng đơn hàng xuất khẩu và phục vụ nhu cầu trong nước có thể các doanh nghiệp phải tăng nhập khẩu từ một số nước lân cận như Indonesia.
Cà phê Việt Nam đang phát triển theo hướng sản xuất bền vững, phát triển xanh, đáp ứng yêu cầu khắt khe thị trường. Tạo sản phẩm chất lượng cao phù hợp yêu cầu của các thị trường trên thế giới.
Mục tiêu đến năm 2030, kim ngạch xuất khẩu cà phê sẽ đạt 6 tỷ USD. Về chủng loại cà phê xuất khẩu, thị trường ghi nhận sự tăng trưởng không chỉ thể hiện qua sản lượng mà còn qua giá trị. Đặc biệt là với cà phê nhân Robusta đạt gần 1,9 tỷ USD, Arabica hơn 56 triệu USD và cà phê đã khử caffeine gần 3,2 triệu USD.
Giá hồ tiêu giảm nhẹ 1.000 đồng/kgGiá tiêu hôm nay (21/7), tại khu vực Đông Nam Bộ, giảm 1.000 đồng/kg ở một số địa phương, giao dịch quanh mốc 145.000 - 146.000 đồng/kg, giá mua cao nhất tại các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông là 146.000 đồng/kg.
Cụ thể, giá tiêu Đắk Lắk được thu mua ở mức 146.000 đồng/kg giảm 1.000 đồng/kg so với ngày hôm qua. Giá tiêu Chư Sê (Gia Lai) thu mua ở mức 145.000 đồng/kg. Giá tiêu Đắk Nông hôm nay ghi nhận giảm xuống ở mức 147.000 đồng/kg.
Tại khu vực Đông Nam Bộ, giá tiêu hôm nay ổn định so với ngày hôm qua. Cụ thể, tại Bà Rịa – Vũng Tàu hiện vẫn ở mức 145.000 đồng/kg; tại Bình Phước giá tiêu hôm nay giảm xuống ở mức 145.000 đồng/kg.
Như vậy, giá tiêu trong ngày hôm nay ghi nhận giảm tại một vài địa phương, ghi nhận mức giá cao nhất 146.000 đồng, dao động ở vùng giá 145.000 - 146.000 đồng/kg.
Kết thúc phiên giao dịch gần nhất, Cộng đồng Hồ tiêu Quốc tế (IPC) niêm yết giá tiêu đen Lampung (Indonesia) chốt tại 7.191 USD/tấn, giảm 0,44%; giá tiêu đen Brazil ASTA 570 ở mức 7.125 USD/tấn (giảm 0,34%); giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA mức 7.500 USD/tấn.
Giá tiêu trắng Muntok 9.157 USD/tấn giảm 0,53%; giá tiêu trắng Malaysia ASTA ở mức 8.800 USD/tấn.
Giá tiêu đen Việt Nam đồng loạt giữ giá ở mốc cao giao dịch ở 6.000 USD/tấn với loại 500 g/l; loại 550 g/l mức 6.600 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 8.800 USD/tấn. Theo Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) giữ nguyên giá tiêu tại Brazil, Việt Nam. Giá tiêu đen Indonesia giảm so với ngày hôm qua./.
Giá lúa gạo điều chỉnh tăng nhẹTheo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, giá gạo tăng nhẹ so với ngày hôm qua. Cụ thể, gạo nguyên liệu IR 504 Hè Thu ở mức 10.700 - 10.750 đồng/kg (tăng 50 đồng/kg); gạo thành phẩm IR 504 ở mức 12.550 - 12.550 đồng/kg, (tăng 50 đồng/kg).
Tại các chợ lẻ, giá gạo không có điều chỉnh. Hiện gạo Nàng Nhen có giá niêm yết cao nhất 20.000 đồng/kg; gạo Jasmine 18.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Nàng hoa 20.000 đồng/kg; gạo tẻ thường dao động quanh mốc 15.000 - 16.000 đồng/kg; thơm Thái hạt dài 20.000 - 21.000 đồng/kg; gạo Hương lài 20.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 21.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 18.500 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 20.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg.
Giá lúa hôm nay ít biến động. Cụ thể, giá lúa có điều chỉnh tăng 100 đồng/kg, lúa IR 50404 giá dao động quanh mốc 6.900 - 7.000 đồng/kg (tăng 100 đồng/kg); lúa Đài thơm 8 giảm 200 đồng/kg ở giá 7.100 - 7.200 đồng/kg; lúa OM 5451 giá ổn định 6.900 - 7.200 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; lúa OM 18 có giá 7.000 - 7.200 đồng/kg; lúa OM 380 dao động từ 7.000 - 7.200 đồng/kg (giảm 100 đồng/kg). Lúa Nhật ở mốc ở mốc 7.800 - 8.000 đồng/kg; lúa Nàng Hoa 9 giá 7.600 - 7.700 đồng/kg và lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 20.000 đồng/kg.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam điều chỉnh giảm so với ngày hôm qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo 100% tấm ổn định ở mức 465 USD/tấn, giảm 5 USD/tấn; gạo tiêu chuẩn 5% tấm hiện ở mức 564 USD/tấn, giảm 3 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 543 USD/tấn, giảm 2 USD/tấn.
Giá cao su trên hai sàn giao dịch đều tăngTại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 0,44% lên mức 318,4 yen/kg tại thời điểm khảo sát.
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 0,58% ở mức 14.640 nhân dân tệ/tấn.
Theo số liệu thống kê của Cơ quan Hải quan Trung Quốc, trong 5 tháng đầu năm 2024, Trung Quốc nhập khẩu trên 2,92 triệu tấn cao su (HS 4001, 4002, 4003, 4005), với trị giá 4,71 tỷ USD, giảm 15,3% về lượng và giảm 8,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.
Thị phần cao su Việt Nam chiếm 17,31% trong tổng lượng cao su nhập khẩu của Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm 2024, cao hơn so với mức 16,4% của 5 tháng đầu năm 2023.
Thái Lan, Việt Nam, Malaysia, Nga và Hàn Quốc là 5 thị trường lớn nhất cung cấp cao su cho Trung Quốc. Trừ Thái Lan và Việt Nam, lượng cao su nhập khẩu từ các thị trường còn lại đều tăng so với cùng kỳ năm 2023, thông tin từ Bộ Công Thương Việt Nam.
Trong 5 tháng đầu năm 2024, Việt Nam là thị trường cung cấp cao su lớn thứ 2 cho Trung Quốc với 506,43 nghìn tấn, trị giá 715,46 triệu USD, giảm 10,7% về lượng và giảm 7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Thị phần cao su Việt Nam chiếm 17,31% trong tổng lượng cao su nhập khẩu của Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm 2024, cao hơn so với mức 16,4% của 5 tháng đầu năm 2023.
Về chủng loại nhập khẩu, Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu cao su tự nhiên và cao su tổng hợp, lượng nhập khẩu các chủng loại này đều có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, cao su tự nhiên chiếm 28,94% tổng lượng cao su nhập khẩu của Trung Quốc; Cao su tổng hợp chiếm 67,25%; Phần còn lại là cao su tái sinh và cao su hỗn hợp.
Trung Quốc nhập khẩu 846,83 nghìn tấn cao su tự nhiên (HS 4001), trị giá 1,25 tỷ USD, giảm 19,3% về lượng và giảm 9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023, chủ yếu nhập khẩu từ các thị trường: Thái Lan, Bờ Biển Ngà, Malaysia, Việt Nam và Indonesia. Trừ Việt Nam và Malaysia, lượng cao su tự nhiên nhập khẩu của Trung Quốc từ các thị trường còn lại đều giảm so với cùng kỳ năm 2023.
KHÁNH LINH (T/h)