Giá cà phê trong nước giảm nhẹ 500-700 đồng/kg so với ngày hôm qua nằm trong khoảng 127.400-128.000 đồng/kg. Hiện giá mua trung bình tại các tỉnh Tây Nguyên là 127.900 đồng/kg, giá mua cao nhất tại các tỉnh Đắk Nông là 128.000 đồng/kg.
Cụ thể, giá cà phê thu mua tại tỉnh Gia Lai (Chư Prông) là 127.800 đồng, ở Pleiku và La Grai cùng giá 127.800 đồng/kg; Tại tỉnh Kon Tum ở mức giá 127.700 đồng/kg; Tại tỉnh Đắk Nông cà phê được thu mua với giá cao nhất 128.000 đồng/kg.
Giá cà phê nhân xô (cà phê nhân, cà phê nhân tươi) tại tỉnh Lâm Đồng ở các huyện như Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà, cà phê được thu mua với giá 127.400 đồng/kg, giảm 600 đồng/kg.
Giá cà phê hôm nay ngày 17/7 tại tỉnh Đắk Lắk; ở huyện Cư M'gar cà phê được thu mua ở mức khoảng 127.800 đồng/kg, còn tại huyện Ea H'leo, thị xã Buôn Hồ được thu mua cùng mức 127.700 đồng/kg.
Theo ghi nhận mới nhất, giá cà phê trên thị trường thế giới đều tăng. Cụ thể, giá cà phê trực tuyến Robusta tại London giao tháng 9/2024 được ghi nhận tại mức 4.638 USD/tấn, tăng 1,2%; giá cà phê arabica giao tháng 9/2024 tại New York ở mức 243,5 UScent/pound sau khi tăng 0,56%.
Giá cà phê Arabica tương lai trên sàn New York đã giảm tới 3,4% trong phiên giao dịch ngày 15/7, sau khi đạt mức cao nhất kể từ tháng 2/2022 vào tuần trước. Đây cũng là phiên giảm lớn nhất trong vòng hai tuần qua.
Giá tương lai của cà phê arabica cao cấp tăng khoảng 30% trong năm nay, vì tình trạng thiếu hụt loại robusta rẻ hơn đã thúc đẩy nhu cầu đối với loại hạt cà phê cao cấp được Starbucks Corp. và các thương hiệu Nespresso của Nestle SA ưa chuộng.
Thị trường đang lo ngại rằng sản lượng tại quốc gia trồng Arabica hàng đầu thế giới là Brazil năm nay sẽ tiếp tục suy yếu, làm tăng thêm căng thẳng nguồn cung trên thị trường toàn cầu.
Giá tiêu duy trì ổn địnhGhi nhận mới nhất, giá tiêu hôm nay tiếp tục đi ngang. Trong đó, mức giao dịch cao nhất là 151.000 đồng/kg vẫn được ghi nhận tại hai tỉnh Đắk Nông và Bà Rịa - Vũng Tàu. Thương lái tại Đắk Lắk, Gia Lai, Bình Phước và Đồng Nai duy trì giao dịch ổn định ở mốc 150.000 đồng/kg.
Trên thị trường thế giới, giá giao dịch tiêu đen Lampung (Indonesia) giảm 0,18%, giá thu mua tiêu đen Brazil ASTA 570 giảm 0,35%, trong khi giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA duy trì ổn định so với ngày 15/7; giá thu mua tiêu trắng Muntok giảm 0,19% và giá tiêu trắng Malaysia ASTA không có thay đổi mới.
Khoảng 10 ngày trở lại đây, giá tiêu quay quanh mức trên dưới 150.000 đồng/kg. Tại các diễn đàn hồ tiêu, chủ đề giá tiêu cũng không còn quá nóng dù kỳ vọng giá tăng vẫn cứ được đặt ra. Nhiều người mong mỏi, giá tiêu có thể lên 200.000 đồng/kg, thậm chí có thể lên 220.000 đồng/kg.
Giá tiêu tại các vùng trồng trọng điểm trong nước như Đắk Lắk, Gia Lai, giá tiêu Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai ngày 16/7/2024 ghi nhận ổn định quanh mức 150.000 – 151.000 đồng/kg. So với cùng kỳ năm 2021, mức giá này tăng gấp đôi, theo đó, giá tiêu ngày 16/7/2021 quanh mức 73.000 – 75.000 đồng/kg. Giá tiêu duy trì quanh mức 67.000 - 70.000 đồng/kg thời điểm này các năm 2022 và 2023.
Thị trường thiếu các yếu tố hỗ trợ khiến giá tiêu trong nước hơn chục ngày qua không bật tăng như kỳ vọng của giới đầu cơ. Tuy nhiên, với mức giá như hiện nay, người trồng tiêu đã thu được lợi nhuận.
Giá cao su biến động trái chiềuTại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 0,13% về ở mức 318,5 Yên/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h ngày 17/7 (giờ Việt Nam).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 0,1% ở mức 14.465 Nhân dân tệ/tấn.
Từ đầu tháng 7/2024 đến nay, giá mủ cao su nguyên liệu tại một số tỉnh, thành phố có xu hướng giảm mạnh so với cuối tháng trước. Tại một số công ty cao su, hiện giá thu mua mủ cao su nguyên liệu duy trì quanh mức 345 - 390 đồng/TSC, giảm khoảng 5 - 15 đồng/TSC so với cuối tháng trước, Bộ Công Thương Việt Nam đưa tin.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tháng 6/2024, xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 153,48 nghìn tấn, với trị giá 246,95 triệu USD, tăng 81,7% về lượng và tăng 83,4% về trị giá so với tháng 5/2024;
Tuy nhiên so với tháng 6/2023 vẫn giảm 15,1% về lượng, nhưng tăng 3,1% về trị giá, đây là tháng thứ 3 liên tiếp lượng cao su xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm 2023. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu cao su đạt 726,65 nghìn tấn, trị giá trên 1,1 tỷ USD, giảm 5,2% về lượng, nhưng tăng 5,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.
Giá lúa gạo hôm nay 17/7 tại khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long điều chỉnh tăng nhẹ 50 đồng/kg với một số loại gạo; giá lúa tăng, giảm 100 đồng/kg.
Giá lúa gạo xuất khẩu giảmThị trường gạo tại các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long hôm nay nhìn chung nguồn về khá, giao dịch chậm, chất lượng kém do mưa. Cụ thể tại Sa Đéc (Đồng Tháp), giao dịch chậm, giá gạo ít biến động. Tại An Cư (Cái Bè, Tiền Giang) nguồn gạo về khá, giá ổn định, ít gạo đẹp. Tại Lấp Vò (Đồng Tháp), giao dịch chậm, chất lượng gạo xấu, kho mua vào ít.
Theo cập nhật từ Sở NN&PTNT tỉnh An Giang, giá gạo tăng nhẹ so với ngày hôm qua. Cụ thể, gạo nguyên liệu IR 504 Hè Thu ở mức 10.700 - 10.750 đồng/kg (tăng 50 đồng/kg); gạo thành phẩm IR 504 ở mức 12.550 - 12.550 đồng/kg, (tăng 50 đồng/kg).
Mặt hàng phụ phẩm hôm nay ổn định so với ngày hôm qua. Hiện, giá tấm IR 504 ở mức 8.700 - 8.900 đồng/kg. Trong khi đó, giá cám khô ổn định ở mức 7.000 - 7.150 đồng/kg.
Tại các chợ lẻ, giá gạo không có điều chỉnh. Hiện gạo Nàng Nhen có giá niêm yết cao nhất 20.000 đồng/kg; gạo Jasmine 18.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Nàng hoa 20.000 đồng/kg; gạo tẻ thường dao động quanh mốc 15.000 - 16.000 đồng/kg; thơm thái hạt dài 20.000 - 21.000 đồng/kg; gạo Hương lài 20.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 21.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 18.500 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 20.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg.
Với mặt hàng lúa, ghi nhận tại các địa phương giao dịch lúa mới chậm do mua, nhiều nơi ngưng mua, nông dân chào giá vững, giá lúa ít biến động.
Cụ thể, giá lúa có điều chỉnh tăng 100 đồng/kg, lúa IR 50404 giá dao động quanh mốc 6.900 - 7.000 đồng/kg (tăng 100 đồng/kg); lúa Đài thơm 8 giảm 200 đồng/kg ở giá 7.100 - 7.200 đồng/kg; lúa OM 5451 giá ổn định 6.900 - 7.200 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; lúa OM 18 có giá 7.000 - 7.200 đồng/kg; lúa OM 380 dao động từ 7.000 - 7.200 đồng/kg (giảm 100 đồng/kg). Lúa Nhật ở mốc ở mốc 7.800 - 8.000 đồng/kg; lúa Nàng Hoa 9 giá 7.600 - 7.700 đồng/kg và lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 20.000 đồng/kg.
Cũng theo đó, thị trường nếp ghi nhận ghi nhận không có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Nếp đùm 3 tháng (khô) giữ nguyên giá từ 8.800 - 9.000 đồng/kg. Ngoài ra, 9.000 - 9.200 đồng/kg là giá bán được áp dụng với nếp Long An (khô). Mặt khác, nếp 3 tháng (tươi) ổn định so với ngày hôm qua ở mức 7.300 - 7.500 đồng/kg và nếp Long An (tươi) tiếp tục ổn định trong ngày hôm nay.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam điều chỉnh giảm so với ngày hôm qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo 100% tấm ổn định ở mức 465 USD/tấn, giảm 5 USD/tấn; gạo tiêu chuẩn 5% tấm hiện ở mức 564 USD/tấn, giảm 3 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 543 USD/tấn, giảm 2 USD/tấn.
KHÁNH LINH (T/H)
Link nội dung: https://kenhkinhte.vn/gia-nong-san-177-ca-phe-dong-loat-tang-lua-gao-xuat-khau-giam-a33922.html