Giá dầu tăng gần 3%
Giá dầu tăng hơn 2 USD/thùng và rời khỏi chuỗi giảm 3 phiên liên tiếp, do nguy cơ rủi ro trở lại thị trường tài chính sau 1 ngày Cục Dự trữ Liên bang giữ nguyên lãi suất cơ bản.
Chốt phiên giao dịch ngày 2/11, dầu thô Brent tăng 2,22 USD tương đương 2,6% lên 86,85 USD/thùng và dầu thô Tây Texas WTI tăng 2,23 USD tương đương 2,8% lên 82,67 USD/thùng.
Về phía nguồn cung, nước xuất khẩu dầu hàng đầu thế giới – Saudi Arabia – dự kiến sẽ xác nhận lại việc gia hạn cắt giảm sản lượng dầu tự nguyện 1 triệu thùng/ngày đến tháng 12/2023. Trong khi đó, các nhà đầu tư cũng sẽ theo dõi những diễn biến tại Trung Đông – nơi thị trường dầu mỏ đứng trước nguy cơ xung đột lan rộng có thể làm gián đoạn nguồn cung tại khu vực này.
Giá khí tự nhiên giảm 1%
Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm 1%, do sản lượng đạt mức cao kỷ lục và dự báo thời tiết ôn hòa hơn và nhu cầu sưởi ấm trong tuần tới thấp hơn so với dự kiến trước đó.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn New York giảm 2,2 US cent tương đương 0,6% xuống 3,472 USD/mmBTU.
Giá vàng tăng
Giá vàng tăng, khi đồng USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm, do gia tăng đặt cược Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể hoàn tất việc tăng lãi suất, trong khi các nhà đầu tư chờ đợi số liệu bảng lương phi nông nghiệp của Mỹ để có thêm tín hiệu.
Vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 0,2% lên 1.985,69 USD/ounce và vàng kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn New York tăng 0,3% lên 1.993,5 USD/ounce.
Giá vàng tăng, do chỉ số đồng USD giảm 0,7% và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm giảm xuống mức thấp nhất gần 3 tuần.
Trong tháng 10/2023, giá vàng tăng hơn 7% và vượt ngưỡng 2.000 USD/ounce trong tuần trước, do nhu cầu trú ẩn an toàn trong bối cảnh tình trạng bất ổn ngày càng gia tăng tại Trung Đông.
Giá đồng tăng
Giá đồng tăng, do kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ ngừng tăng lãi suất, kéo đồng USD giảm.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,6% lên 8.155 USD/tấn, hồi phục kể từ khi chạm mức thấp nhất 11 tháng (7.856 USD/tấn) trong ngày 23/10/2023.
Giá quặng sắt và thép cây tăng
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng phiên thứ 2 liên tiếp, do nhu cầu đối với nguyên liệu sản xuất thép ngày càng tăng, song đà tăng bị chậm lại bởi nguy cơ nhu cầu giảm tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn Đại Liên tăng 1,59% lên 926,5 CNY (126,59 USD)/tấn – cao nhất kể từ ngày 15/3/2023, sau khi tăng 2,51% trong phiên trước đó.
Đồng thời, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn Singapore tăng 0,84% lên 122,5 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 18/9/2023.
Theo các nhà phân tích, tồn kho thấp, nhu cầu vững, chênh lệch lớn giữa giá giao ngay và kỳ hạn cũng như xu hướng được cải thiện từ chính sách kích thích của Trung Quốc tiếp tục hỗ trợ giá quặng sắt.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,37%, thép cuộn cán nóng thay đổi nhẹ, thép cuộn giảm 0,25%, song thép không gỉ tăng 0,31%.
Giá cao su tại Nhật Bản tiếp đà tăng
Giá cao su tại Nhật Bản tăng, được thúc đẩy bởi đồng JPY suy yếu và giá dầu thô tăng, song số liệu kinh tế Trung Quốc yếu kém đã hạn chế đà tăng.
Giá cao su kỳ hạn tháng 4/2024 trên sàn Osaka tăng 2,4 JPY tương đương 0,9% lên 258,6 JPY (1,72 USD)/kg.
Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 60 CNY tương đương 0,4% lên 14.210 CNY (1.941,63 USD)/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn Singapore tăng 0,6% lên 145,1 US cent/kg.
Giá cà phê giảm tại Việt Nam, tăng tại Indonesia, New York và London
Tồn trữ cà phê của Việt Nam tăng, do nông dân bắt đầu bước vào vụ thu hoạch song nguồn cung vẫn hạn chế.
Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) chào bán ở mức cộng 200-250 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn London, song chỉ có thỏa thuận mua ở mức cộng 150-160 USD/tấn. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 57.700-59.000 VND (2,35-2,4 USD)/kg, giảm so với 59.600-61.400 VND/kg 1 tuần trước đó.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2023 giảm 9,5% so với cùng kỳ năm ngoái xuống 1,3 triệu tấn, tương đương 22 triệu bao (60 kg).
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 560 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn London, tăng 80 USD so với 1 tuần trước đó.
Tại New York, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2023 tăng 5,55 US cent tương đương 3,5% lên 1,6535 USD/lb.
Tại London, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2024 tăng 16 USD tương đương 0,7% lên 2.328 USD/tấn.
Giá đường diễn biến trái chiều
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn ICE thay đổi nhẹ ở mức 27,48 US cent/lb.
Trong khi đó, giá đường trắng kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn London giảm 0,6% xuống 745 USD/tấn.
Giá lúa mì và đậu tương tăng, ngô giảm
Giá đậu tương tại Mỹ tăng, sau khi Trung Quốc cho biết nhập khẩu sẽ duy trì ở mức cao kỷ lục trong năm nay, trong khi thời tiết vẫn là mối lo ngại tại Brazil.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 12/2023 tăng 3-3/4 US cent lên 5,65-1/2 USD/bushel, trong khi giá ngô kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 5 US cent xuống 7,7 USD/bushel. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 1/2024 tăng 13-1/4 US cent lên 13,28-1/4 USD/bushel.
Giá gạo giảm tại Ấn Độ, tăng tại Việt Nam
Giá xuất khẩu gạo đồ tại trung tâm hàng đầu - Ấn Độ - giảm tuần thứ 5 liên tiếp, do nguồn cung mới dư thừa, đồng rupee suy yếu và nhu cầu giảm sau động thái gia hạn thuế đối với loại gạo này của New Delhi.
Tại Ấn Độ - nước xuất khẩu gạo hàng đầu, giá gạo 5% tấm giảm xuống 490-500 USD/tấn, so với 495-505 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Hồi đầu tháng này, Ấn Độ đã gia hạn mức thuế 20% đối với xuất khẩu gạo đồ cho đến tháng 3/2024.
Đối với loại 5% tấm, giá gạo Việt Nam ở mức 650-655 USD/tấn, tăng so với 640-645 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Thái Lan dự kiến xuất khẩu gạo sẽ đạt 8 triệu tấn trong năm nay, được thúc đẩy bởi nhu cầu toàn cầu tăng và đồng baht suy yếu.
Giá dầu cọ tăng hơn 2%
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng và có phiên tăng mạnh nhất trong 3 tuần, sau khi nước sản xuất hàng đầu – Indonesia – xác nhận việc mở rộng kiểm soát xuất khẩu, song nhập khẩu dầu thực vật của Ấn Độ giảm đã hạn chế đà tăng.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn Bursa Malaysia tăng 92 ringgit tương đương 2,5% lên 3.780 ringgit (795,79 USD)/tấn.
Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 3/ 11